Chú thích Trương_Húc

Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của:
Trương Húc
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trương Húc.
  1. Hoài Tố (懷素, khoảng 730 - 780) vốn họ Tiền (錢), tự là Tàng Chân (藏真), quê ở Trường Sa (Hồ Nam), là nhà sư xuất gia từ nhỏ và vì nghèo không tiền mua giấy, phải luyện thư pháp trên lá chuối. Nhờ xem những vết rạn nứt trên tường và những tia sấm chớp mà ông lĩnh hội được cái thần của thư pháp. Hoài Tố thích uống rượu, uống say rồi thì gào thét phóng bút trên giấy như điên cuồng hoặc nhúng cả đầu tóc vào nghiên mực, tuy có vẻ cuồng loạn nhưng lại có qui củ riêng. Vua Đường Văn Tông (唐文宗, tức L‎ý Ngang 李昂, ở ngôi: 827-840) sắc chiếu phong rằng đời Đường có Tam Tuyệt (三絕: ba thứ tuyệt đỉnh) là thi ca của L‎ý Bạch (李白), tài múa kiếm của Bùi Mân 裴旻, và cuồng thảo của Trương Húc. (Theo
  2. Nguồn: và Thơ Đường tập I (Nhà xuất bản Văn học, 1987, tr. 326).
  3. Lý Kỳ (chữ Hán: 李頎), sống trước sau 725, người Đông Xuyên, tỉnh Tứ Xuyên, sau ở Hà Nam, Trung Quốc. Trong thời Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông, ông đỗ tiến sĩ, làm quan chức úy tại huyện Tân Hương, nhưng mãi không được thăng chức, bèn trở về ở ẩn. Ông thường đi lại với Vương Xương Linh, Vương Duy, Cao Thích. Ông học luyện đan và thường bàn đạo lý nhà Phật trong thơ. Ngoài ra, ông cũng có làm một số thơ biên tái. Phong cách của ông cũng hào phóng, khẳng khái, gần Lý Bạch.(Theo Thơ Đường tập I, Nhà xuất bản Văn học, 1987, tr. 326. Trong sách này có giới thiệu bài thơ Tống Ngụy Vạn chi kinh của ông)